Công nghệ Xăng E5 đang gặp phải nhiều thách thức và cơ hội

  • 29/12/2017
  •  
     
     
0
(0)

Xăng E5 chỉ có 5% là nhiên liệu sinh học bio-ethanol (sản xuất từ lương thực như ngô, sắn,…) ,95% còn lại là xăng Ron A92 “truyền thống”.

Xăng sinh học E5 được pha 5% bio-ethanol (sản xuất chủ yếu từ lương thực như ngô, sắn, ngũ cốc và củ cải đường.) Riêng Brazil lại sản xuất bio-ethanol từ mía đường, nhiều tới mức năm 2012 chính phủ Brazil xem xét chính sách công nhận ethanol là sản phảm chính của mía và chuyển đường thành sản phẩm phụ. Xem ra như thế, việc trồng cây nguyên liệu để sản xuất ethanol đã trở thành nguồn thu nhập rất lớn ở những nước sản xuất và tiêu thụ xăng sinh học.

Nước gần ta nhất là Thái Lan thì từ 2004 đã bắt đầu phân phối xăng sinh học và tới năm 2010, xăng sinh học E10( tức có 10% ethanol) đã được bán rộng rãi trên toàn quốc. Hiện Thái Lan đã có kế hoạch dùng xăng E20, E85. Đây là kế hoạch dài hạn vì chỉ có xe ô tô sản xuất sau năm 2009 mới có động cơ tương thích để dùng những loại xăng này.

Từ năm 2007, chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo triển khai đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025. Hiện Việt Nam đã có 6 nhà máy sản xuất bio-ethanol từ sắn (mỳ) lát, với tổng công suất lên tới 500 triệu lít/năm.

Cái lợi đầu tiên và lớn nhất khi sử dụng xăng sinh học là cái lợi về bảo vệ môi trường. Nhiên liệu sinh học không gây tàn phá môi trường như nhiên liệu hóa thạch ( dầu mỏ…). Cái lợi thứ hai là lợi cho người nông dân, lực lượng trồng sắn (mỳ) hay các cây nguyên liệu khác để cung cấp cho nhà máy ethanol. Như ở Brazil-đất nước trồng mía đường-thì việc nông dân có đầu ra ổn định, có thu nhập tốt khi trồng mía bán cho các nhà máy sản xuất ethanol đã góp phần đáng kể ổn định nền kinh tế Brazil.

Dĩ nhiên ở Việt Nam, việc trồng sắn mỳ cung cấp nguyên liệu sản xuất xăng sinh học sẽ giúp người nông dân có thu nhập khá. Còn nếu sau này ta khẳng định được nguyên liệu thay thế tốt hơn sắn mỳ, thì nông dân lại trồng nguyên liệu ấy cho việc sản xuất xăng sinh học.

Xăng sinh học là nhiên liệu thay thế thích hợp nhất trong thời đại cần quyết liệt bảo vệ môi trường. Việc nguồn nguyên liệu hóa thạch trong lòng trái đất dần cạn kiệt chỉ là một nguyên nhân để xăng sinh học có điều kiện thay thế và “lên ngôi”, chứ không phải điều kiện tiên quyết.

Nhưng, với người tiêu dùng xăng ở Việt Nam, việc sử dụng xăng sinh học E5 còn khá mới mẻ. Cái gì còn mới, chưa quen lâu nay, thì đôi khi thấy…ngại. Nhưng nếu được giải thích, giải trình rõ ràng về việc xăng E5 không tác hại đến động cơ, được khuyến khích bằng bảo đảm chất lượng xăng(không gây “trục trặc kỹ thuật” khi vận hành xe), và có giá cả cạnh tranh (xăng E5 có thể rẻ hơn xăng A92 cùng chủng từ 500-1000đ/lít), thiết nghĩ người tiêu dùng Việt Nam sẽ “vui vẻ” dùng xăng sinh học E5.

Vì, nghĩ cho cùng, dùng xăng ấy chỉ có lợi, chứ đâu có hại gì cho xe hay cho…túi tiền của mình. Ngược lại, có lợi cho môi trường là cái lợi chung, nhưng chính mình cũng được hưởng. Rồi, với thời gian, khi đã quen với xăng E5, trong tương lai, người tiêu dùng Việt Nam sẽ tiến tới dùng xăng sinh học E20 hay E85, những loại xăng nhiều nước tiên tiến trên thế giới đang dùng. Họ dùng tốt, thì chắc chắn, ta dùng cũng tốt.

Nguyên liệu đầu vào sản xuất xăng E5 còn gặp nhiều khó khăn

Việc sử dụng xăng sinh học đang trở thành xu thế tại nhiều nước, đặc biệt là châu Âu và Mỹ.

Hiện nay, một số nước đã bắt buộc sử dụng xăng sinh học như Úc, New Zealand, Trung Quốc, Ấn độ, Brasil… Ngay tại khu vực Đông Nam Á, Philippin, Thái Lan là các quốc gia đi đầu trong việc sử dụng xăng sinh học từ hơn 10 năm nay. Indonesia hiện bắt buộc sử dụng xăng E3, từ năm 2020 sử dụng xăng E5 và sau 2025 sẽ sử dụng xăng E25.

Tại Việt Nam, nhằm góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường, giảm thiểu khí nhà kính và tạo đầu ra ổn định cho nông sản, ngày 20/11/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”; Quyết định số 53/2012/QĐ-TTg ngày 22/11/2012 về việc phê duyệt ban hành lộ trình áp dụng tỷ lệ phối trộn nhiên liệu sinh học với nhiên liệu truyền thống.

Phát biểu tại Hội thảo “Sử dụng nhiên liệu sinh học – Giải pháp phát triển bền vững”, phó giáo sư Phạm Hữu Tuyến cho biết việc sử dụng xăng E5 giúp cải thiện công suất động cơ, suất tiêu hao nhiên liệu, giảm đáng kể phát thải HC và CO. Đồng thời, nhiên liệu E5 hoàn toàn có thể sử dụng an toàn trên động cơ xăng đang lưu hành ở Việt Nam mà không cần thay đổi kết cấu hay vật liệu chi tiết.

Trước tình hình trên, Chính phủ đã giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khẩn trương rà soát, xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu sắn, đảm bảo ổn định trong việc cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất nghiên liệu sinh học. Đồng thời Bộ chú trọng gắn kết chặt chẽ vùng nguyên liệu với các nhà máy sản xuất, chế biến nhiên liệu sinh học có chiến lược đầu tư phát triển lâu dài, có cam kết hợp đồng tiêu thụ ổn định, hợp lý, đảm bảo lợi ích của người trồng sắn.

Khó khăn trong khâu nguyên liệu đầu vào

Theo Cục trồng trọt- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết Việt Nam được đánh giá có điều kiện thuận lợi để sản xuất nhiên liệu sinh học (NLSH), tiềm năng của một số loài cây trồng cung cấp nguyên liệu cho sản xuất NLSH như ngô, sắn và mía (sản xuất cồn); các cây có dầu như lạc, đậu tương, vừng, hướng dương, dừa, bông (sản xuất diesel).

Tuy nhiên, trước nhu cầu làm lương thực rất lớn cho con người và gia súc; tình hình giá cả lương thực tăng cao và nguy cơ lạm phát nền kinh tế trong và ngoài nước; quỹ đất dành cho sản xuất cây lương thực còn hạn chế thì vấn đề an ninh lương thực quốc gia được đặt lên hàng đầu.

Một số cây như ngô, đậu tương, vừng còn thiếu so với nhu cầu lương thực, thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Do vậy, trong số các cây trồng nông nghiệp, sắn, mía và cây dầu mè được đánh giá là cây trồng có tiềm năng sản xuất NLSH. Mặc dù vậy, trong quá trình tập trung phát triển nguồn nguyên liệu này cũng gặp nhiều khó khăn.

Cây dầu mè

Mía là cây trồng tiềm năng cho NLSH, dễ trồng, bộ giống mới phong phú, năng suất, chất lượng cao. Giá nguyên liệu mía dao động từ 400-500 đồng/kg tùy từng địa phương. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng sản xuất cồn từ nguyên liệu rỉ đường mía chưa có tính cạnh tranh cao vì giá nguyên liệu đắt và công nghệ lạc hậu.

Kỹ thuật trồng trọt và thâm canh mía ở nước ta nhìn chung còn ở mức trung bình so với thế giới do vậy Việt Nam vẫn còn có điều kiện để nâng cao năng suất, chất lượng mía để đáp ứng cả nhu cầu chế biến đường và cồn sinh học. Để thu được 1 lít cồn cần có 4 lít mật rỉ, chi phí mất 6.400 đồng/kg, giá bán cồn tại các nhà máy dao động trên dưới 7000 đồng/lít.

Đối với cây sắn, đây được xem là cây dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau và điều kiện kinh tế nông hộ. Việt Nam có thế mạnh về sản xuất sắn, diện tích trồng sắn đứng thứ ba sau lúa và ngô. Vai trò của cây sắn đã và đang chuyển đổi nhanh chóng từ chỗ là cây lương thực trở thành cây công nghiệp và là cây nguyên liệu cho sản xuất NLSH có tốc độ phát triển cao trong những năm qua.

Tuy nhiên, việc phát triển thiếu bền vững như hiện nay, tình trạng phá rừng trồng sắn, trồng sắn quảng canh năng suất thấp, ô nhiễm môi trường trong chế biến tinh bột sắn,… tiếp tục là những vấn đề nan giải. Do vậy, các cơ quan chức năng cần được quan tâm, điều chỉnh nhằm phát triển ổn định, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững là hết sức cấp thiết và phù hợp với chủ trương của Chính phủ trong việc tái cấu trúc ngành nông nghiệp hiện nay.

Cây dầu mè (Jatropha) được đánh giá là cây trồng rất dễ tính, có phổ thích nghi rộng, có thể trồng được ở hầu hết các nước Nhiệt đới và Á Nhiệt đới. Hiện Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phê duyệt Đề án “Nghiên cứu, phát triển và sử dụng sản phẩm cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) ở Việt Nam giai đoạn 2008- 2015 và tầm nhìn đến 2025”. \

Trong đó đề ra mục tiêu cụ thể giai đoạn 2008-2010 là trồng thử nghiệm, khảo nghiệm và sản xuất thử ở các vùng sinh thái khác nhau đạt quy mô diện tích khoảng 30.000 ha; giai đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn đến 2025 là từng bước mở rộng sản xuất quy mô lớn theo nhu cầu thị trường, đến năm 2015 có thể đạt diện tích gây trồng trong cả nước khoảng 300.000 ha và định hướng tiềm năng đến 2025 có thể đạt diện tích 500.000 ha để cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất NLSH.

Tuy nhiên, đễn thời điểm hiện tại các hạng mục trên đều chưa đạt được so với mục tiêu của đề án.

 

Webike – Tổng hợp

Bài viết này có hữu ích không?

Click vào ngôi sao để bình chọn!

Trung bình 0 / 5. Số bình chọn: 0

Không có bình chọn nào!

Tags:

XU HƯỚNG BIKER

Return Top